XtGem Forum catalog
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Những đứa con của nửa đêm


Phan_15

Trong một bức tranh treo trên tường phòng ngủ, tôi ngồi cạnh Walter Raleigh, dõi mắt theo một ngón tay đang chỉ của người ngư phủ; mắt căng ra ở chân trời, mà phía sau là - cái gì? - tương lai của tôi, có thể; số kiếp đặc biệt của tôi, mà tôi đã biết từ đầu, qua một sư hiện diện sáng mờ sắc xám tại căn phòng màu thiên thanh ấy, lúc đầu còn mơ hồ, nhưng không thể bỏ qua... bởi ngón tay kia còn chỉ xa hơn chân trời sáng mờ ấy, nó chỉ ra ngoài khung gỗ tếch, qua một mảng tường ngắn màu thiên thanh, lái ánh mắt tôi tới một cái khung khác, trong đó treo số mệnh không thể trốn thoát của tôi, bị cố định vĩnh viễn dưới tấm kính: đây là một bức-hình-em-bé cỡ-đại với dòng chú thích tiên tri, còn đây, bên cạnh nó, một lá thư trên thứ giấy da bê hảo hạng, dập nổi dấu quốc huy - bốn con sư tử Sarnath đứng trên pháp luân ở trên bút tích của Thủ tướng, đến nơi, qua Vishwanath cậu bé đưa thư, một tuần sau khi ảnh tôi xuất hiện trên trang nhất tờ Thời báo Ấn Độ.

Báo chí tôn vinh tôi; chính trị gia khẳng định vị thế của tôi. Jawaharlal Nehru đã viết: “Bé Saleem thân mến, lời chúc muộn màng của tôi nhân sự kiện đáng mừng của thời khắc cháu ra đời! Cháu là người mới nhất mang gương mặt xa xưa nhưng cũng vĩnh viễn trẻ trung ấy của Ấn Độ. Chúng ta sẽ dõi theo cuộc đời của cháu với sự quan tâm sát sao nhất; nó sẽ là, theo một nghĩa nào đó, tấm gương của bản thân chúng ta.”

Và Mary Pereira, kinh hoảng, “Chính phủ ư, thưa Bà? Họ sẽ để mắt đến thằng bé? Nhưng vì sao, thưa Bà? Nó có làm sao đâu?” - Và Amina, không nhìn ra âm sắc sợ hãi trong giọng nói của người ayah: “Đó chỉ là một cách nói thôi Mary; nó không có nghĩa như họ nói đâu.” Nhưng Mary không yên tâm; và bao giờ cũng vậy, mỗi khi bước vào phòng đứa bé, mắt cô lại chớp dáo dác về bức thư trong khung kính; mắt cô đảo quanh, xem Chính phủ có đang theo dõi không; đôi mắt ngờ vực: họ biết gì? Có ai trông thấy không?... Về phần mình, khi lớn lên, tôi cũng không thực sự chấp nhận lời giải thích của mẹ tôi; nhưng nó ru tôi vào một cảm giác an toàn giả tạo; thế nên, mặc dù đôi chút nghi ngờ của Mary đã rỉ sang tôi, tôi vẫn bị bất ngờ khi...

Có lẽ ngón tay của người ngư phủ không chỉ vào bức thư đóng khung, bởi nếu ta theo nó đi xa hơn nữa, nó sẽ dẫn ta qua cửa sổ ra ngoài, xuống ngọn đồi hai tầng, qua đường Warden, vượt bể bơi Breach Candy, và ra tới một mặt biển khác, không phải mặt biển trong tranh; một mặt biển nơi cánh buồm của những chiếc dhow Koli rực đỏ trong ánh mặt trời sắp lặn... một ngón tay kết tội, khi ấy, buộc chúng ta phải nhìn vào những con người bị tước đoạt của thành phố.

Hoặc giả - và ý tưởng này làm tôi hơi rùng minh bất chấp cái nóng - đó là một ngón tay cảnh cáo, mục đích là thu hút sự chú ý vào chính nó; phải, có thể nó là, sao lại không, lời tiên tri về một ngón tay khác, một ngón tay không khác biệt với chính nó, mà sự xuất hiện trong câu chuyện của tôi sẽ tiết lộ thứ logic đáng sợ của Alpha và Omega... lạy Chúa, gớm thay ý tưởng ấy! Bao nhiêu tương lai từng treo trên cái cũi của tôi, chỉ chờ tôi hiểu được? Bao nhiêu lời cảnh báo đã được gửi đến cho tôi - bao nhiêu đã bị tôi bỏ qua?... Nhưng không. Tôi sẽ không làm “đồ điên ở đâu ấy”, nói theo cách diễn đạt sinh động của Padma. Tôi sẽ không bị cuốn theo những lạc đề gàn dở[2]; chừng nào tôi còn sức kháng cự lại những rạn nứt.

[2] Ở đây Rushdie um chơi chữ. Nguyên tác: “cracked digressions”. Cracked vừa có nghĩa là gàn dở, vừa có nghĩa là bị rạn nứt.

Khi Amina Sinai và Bé Saleem về nhà trên chiếc Studebaker đi mượn, Ahmed Sinai mang theo lên xe một bịch giấy manila. Trong bịch giấy: một hũ rau quả dầm, đã đổ hết kasaundy chanh, đã rửa, luộc, tiệt trùng - và giờ, đổ đầy lại. Một cái bình đậy kín, với một lớp màng cao su phủ kín cái nắp thiếc và cố định bằng một sợi chun buộc xoắn. Cái gì được bịt kín dưới cao su, bảo quản trong thủy tinh, giấu trong giấy manila? Đây: quay về nhà cùng bố, mẹ và em bé là một lượng nước muối trong đó chứa một cái dây rốn nổi lững lờ. (Nhưng nó là của tôi hay của Đứa bé kia? Đó là điều tôi không thể nói được.) Trong khi cô ayah mới tuyển, Mary Pereira, đến Điền trang Methwold bằng xe buýt, một cái dây rốn du hành trong hộc để găng tay trên chiếc Studey của một đại gia điện ảnh. Trong khi Bé Saleem lớn lên thành người lớn, đoạn dây rốn lửng lơ không thay đổi trong nước muối đóng chai, đằng sau một cái tủ gỗ tếch. Và, nhiều năm sau, khi gia đình tôi bước vào cuộc lưu đày ở Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết, khi tôi đấu tranh hướng tới sự thuần khiết, những sợi dây rốn sẽ gặp thời trong chốc lát.

Không có gì bị vứt đi; cả đứa bé lẫn nhau thai đều được giữ lại; cả hai đều về đến Điền trang Methwold; cả hai đều đợi đến thời của mình.

Tôi không phải là một đứa trẻ đẹp đẽ. Những bức-hình-em-bé cho thấy gương mặt trăng tròn của tôi quá to; quá tròn vành vạnh. Vùng cằm bị thiếu một cái gì đó. Làn da trắng trẻo ôm lấy đường nét khuôn mặt tôi - nhưng những vết bớt làm nó biến dạng; một vệt ố sẫm chảy xuống chân tóc bờ Tây, một mảng khác nhuộm sẫm cái tai bên Đông. Và thái dương tôi: quá nổi bật: hai mái vòm Byzantine hình củ hành. (Sonny Ibrahim và tôi sinh ra để làm bạn của nhau - khi bọn tôi cụng trán, hai hõm forcep của Sonny cho phép hai thái dương củ hành của tôi nằm lọt ở trong, khít khao như mộng mộc.) Amina Sinai, nhẹ nhõm khôn tả khi thấy tôi chỉ có một cái đầu, ngắm nó với sự trìu mến của người mẹ nhân lên gấp bốn, nhìn nó qua một màn sương đẹp đẽ hóa, phớt lờ vẻ kỳ dị băng giá của đôi mắt màu thiên thanh, hai thái dương như cặp sừng còi, và cả cái mũi dưa chuột ngoại cỡ của tôi.

Cái mũi của Bé Saleem: nó to khủng bố; và chảy nước.

Đặc điểm thú vị của giai đoạn đầu đời của tôi: to và kém xinh đẹp như vậy, có vẻ như tôi không được vừa ý. Ngay từ những ngày đầu, tôi đã triển khai một chương trình tự tăng trưởng đầy anh dũng. (Như thể tôi biết rằng, để gánh vác những gánh nặng của cuộc sống tương lai, tôi cần phải khá đô con.) Đến giữa tháng Chín, tôi đã vắt kiệt bầu sữa không hề ít ỏi của mẹ tôi. Một bà vú được thuê tạm nhưng bà ta bỏ chạy, cạn khô như sa mạc chỉ sau hai tuần, cáo buộc Bé Saleem định cắn đứt đầu vú mình bằng hai hàng lợi không răng. Tôi chuyển qua bú bình và nốc cạn từng lượng lớn hợp chất: những núm vú trên bình sữa cũng lãnh đủ, minh oan cho bà vú tố cáo tôi. Những ghi chép trong cuốn sổ-tay-em-bé rất tỉ mỉ; chúng cho thấy tôi nở ra gần như trông thấy, tăng kích cỡ từng ngày; nhưng đáng tiếc là không có phép đo phần mũi nào được thực hiện nên tôi không thế kết luận liệu cơ quan hô hấp của mình có phát triển với tốc độ tương đương, hay nhanh hơn những phần còn lại. Tôi phải nói rằng mình có hệ trao đổi chất khỏe mạnh. Chất thải được bài tiết dào dạt từ các cửa ngõ thích hợp; từ mũi tôi đổ ra một dòng thác chất nhờn lóng lánh. Từng binh đoàn mùi soa, từng trung đoàn tã lót tìm đường chui vào cái tủ giặc lớn trong phòng tắm cửa mẹ tôi... trút rác thải qua đủ mọi cửa, tôi vẫn giữ đôi mắt ráo hoảnh. “Thằng bé ngoan thế cơ chứ, Bà nhỉ,” Mary Pereira nói, “Cấm có khóc bao giờ.”

Bé Saleem ngoan ngoãn là một đứa trẻ lặng lẽ; tôi hay cười, song không thành tiếng. (Như con trai tôi, tôi bắt đầu bằng cách đánh giá tình hình, nghe ngóng trước khi nhảy sang ê a và, sau đó, nói chuyện.) Có một thời gian Amina và Mary sợ rằng thằng bé bị câm; nhưng, đúng lúc họ sắp nói với ông bố (mà họ đã giữ bí mật nỗi lo lắng của mình - không ông bố nào muốn một đứa con khuyết tật), thằng bé lại bật thốt ra tiếng, và trở nên, ở mọi tình huống trên phương diện ấy, hoàn toàn bình thường. “Cứ như thể,” Amina thì thầm với Mary, “nó đã quyết định cho chúng ta được yên lòng.”

Còn một vấn đề nghiêm trọng hơn. Amina và Mary mất vài ngày mới nhận ra điều này. Bận rộn với những quy trình đồ sộ và phức tạp để hóa thân chành một bà mẹ hai đầu, tầm nhìn bị che phủ bởi một màn sương đồ lót hôi thối, họ không nhận ra sự bất động của mí mắt tôi. Amina, nhớ lại, trong thời kỳ bà mang bầu, sức nặng của đứa con chưa ra đời đã giữ thời gian lắng đọng như một mặt hồ xanh lặng ngắt ra sao, bắt đầu tự hỏi phải chăng điều ngược lại đang xảy ra - phải chăng đứa bé sở hữu một thứ ma lực nào đó với toàn bộ thời gian trong phạm vi kề cận quanh mình và đang tăng tốc nó, thế nên mẹ-và-ayah không bao giờ có đủ thời gian để làm mọi thứ cần làm, thế nên đứa trẻ mới có thể phát triển với một tốc độ dường như không tưởng; lạc lối trong những huyễn tưởng về trật tự thời gian ấy, bà không nhận thấy vấn đề của tôi. Chỉ khi bà đã rũ bỏ ý tưởng ấy và tự nhủ tôi chẳng qua là một thằng bé phổng phao phàm ăn, một đứa trẻ phát triển sớm, tấm màn của tình mẫu tử mới hé ra đủ để bà và Mary rú lên, đồng thanh: “Kìa, baap-re-baap! Kìa, Bà! Này, Mary! Thằng bé không hề chớp mắt!”

Cặp mắt quá xanh: xanh-Kashmir, xanh-đứa-trẻ-bị-tráo, với sức nặng của dòng nước mắt không trào, quá xanh không thể chớp. Lúc được cho ăn, mắt tôi không hề hấp háy; lúc nàng Mary đồng trinh bế tôi qua vai và kêu lớn, “Uii, nặng thế, lạy Chúa tôi!” tôi ợ hơi mà không chớp mắt. Lúc Ahmed Sinai lết bàn chân bó ngón tới bên cũi tôi nằm, tôi nhượng bộ cặp môi trề bằng cái nhìn chăm chú và bất động… “Khéo ta nhầm, Bà ạ,” Mary nêu ý kiến. “Khéo sahib nhỏ đang bắt chước chúng ta - thấy ta chớp thì chớp theo.” Và Amina: “Ta thay nhau chớp thử xem sao.” Mí mắt luân phiên mở-ra-đóng-lại, họ quan sát màu xanh băng giá nơi tôi; nhưng không có một rung động dù là nhỏ nhất; cho đến khi Amina tự mình giải quyết vấn đề và thò tay vào nôi để vuốt mí mắt tôi xuống. Chúng khép lại: hơi thở tôi biến đổi, ngay tức thì, sang nhịp thở thỏa mãn của giấc ngủ. Sau đó, suốt mấy tháng, mẹ và ayah thay phiên nhau mở và khép mí mắt cho tôi. “Nó sẽ học được, Bà ạ,” Mary vỗ về Amina, “Nó là một đứa bé ngoan, nhất định nó sẽ biết cách thôi.” Tôi học được thật: bài học đầu tiên của đời tôi: không ai mở mắt mà đối mặt với đời mãi được.

Giờ đây, nhìn lại qua đôi mắt ấu thơ, tôi có thể thấy tất cả một cách hoàn hảo - kinh ngạc thay những gì ta nhớ được khi ta cố. Điều tôi thấy: thành phố, phơi mình như một con thằn lằn hút máu dưới cái nóng mùa hè. Bombay của chúng ta: trông nó như một bàn tay nhưng kỳ thực nó là một cái miệng, luôn mở to, luôn đói khát, nuốt lương thực và nhân tài từ khắp nơi trên đất Ấn. Một con đỉa lộng lẫy, không sản xuất gì ngoài phim ảnh bush-shirt[3] cá biển... giữa cơn dư chấn hậu Chia cắt, tôi thấy Vishwanath cậu bé đưa thư đạp xe về phía quả đồi hai tầng nhà tôi, phong bì da bê trong xắc cốt, cưỡi chiếc Arjuna Indiabike cũ kỹ phóng qua một chiếc xe buýt đang gỉ nát - bị bỏ không dù chưa tới mùa mưa, vì tay tài xế bỗng nhiên quyết định chạy sang Pakistan, tắt máy rồi bỏ đi, để lại cỗ xe đầy hành khách mắc kẹt, bấu vào cửa sổ, bám lấy nóc xe, phòi ra ở cửa lên xuống... tôi có thể nghe tiếng họ chửi rủa, đồ-lợn-đẻ, quân-đốn-mạt; nhưng họ sẽ bíu chặt cái chỗ ngồi phải giành giật mới có được ấy suốt hai giờ trước khi phó mặc cỗ xe cho số phận. Và, và: đây là người Ấn Độ đầu tiên bơi vượt Eo biển Anh quốc, Ngài Pushpa Roy, xuất hiện trước cổng bể bơi Breach Candy. Đầu đội mũ tắm màu nghệ, quần bơi xanh quấn khăn tắm ngả màu cờ, ngài Pushpa đây đã tuyên chiến với chính sách chỉ-da-trắng của bể tắm. Ông ta cầm bánh xà phòng Mysore mùi đàn hương; ưỡn thằng người; sải bước qua cổng... nơi đám Pathan làm thuê túm lấy ông ta, người Ấn bảo vệ người Âu khỏi cuộc binh biến của người Ấn như thường lệ; rồi ông ta trở ra, anh dũng kháng cự, bị quặt tay điệu ra đường Warden và lẳng xuống đất. Người bơi vượt biển nhào ra giữa đường, tránh khỏi lạc đà taxi xe đạp trong gang tấc (Vishwanath đánh tay lái để tránh bánh xà phòng của ông ta)... nhưng ông ta không nhụt chí; lụi hụi đứng lên; lúi húi phủi quần áo; và thề hôm sau sẽ trở lại. Suốt những năm tuổi thơ của tôi, điểm nhấn của ngày là cảnh Pushpa người vận động viên bơi, mũ màu nghệ và khăn tắm ngả màu cờ, lao mình trái với ý muốn ra đường Warden. Và rốt cuộc cuộc vận động bất khuất của ông đã thắng lợi, bởi ngày nay Bể bơi cho phép một số người Ấn - “tầng lớp ưu tú” - bước xuống làn nước hình bản đồ của mình. Nhưng Pushpa không thuộc tầng lớp ưu tú; đã già và bị lãng quên, ông đứng nhìn Bể bơi từ xa... và giờ quần chúng đang ùa vào tôi mỗi lúc một nhiều - chẳng hạn như Bano Devi, người nữ đô vật nổi tiếng thời ấy, người chỉ đấu với đàn ông và dọa sẽ lấy bất kỳ ai thắng mình, hệ quả của lời thề ấy là cô ta chưa thua một keo nào; và (giờ ở gần nhà hơn), vị sadhu dưới vòi nước trong vườn nhà tôi, tên là Purushottam, người mà tụi tôi (Sonny, Mắt Chẻ, Tóc Dầu, Cyrus và tôi) luôn gọi là Puru-ông-guru - tin rằng tôi là Mubarak, Kẻ được Ban phước, ông hiến dâng đời mình để dõi theo tôi, và dành trọn thời gian cho việc dạy cha tôi xem chỉ tay và phù phép xua mụn cóc khỏi mẹ tôi; rồi đến sự kình địch giữa lão người ở cũ Musa và cô ayah mới Mary, điều sẽ tích tụ cho tới khi bùng nổ; tóm lại, cuối năm 1947, cuộc sống ở Bombay đang đầy ắp, phong phú, vô định hình một cách đa dạng chưa từng thấy... trừ một việc là tôi đã đến; tôi đã bắt đầu chiếm lĩnh vị trí trung tâm vũ trụ; và khi xong việc, tôi sẽ đem ý nghĩa đến cho tất cả. Quý vị không tin tôi? Nghe kìa: bên nôi tôi, Mary Pereira đang hát một bài hát ngắn:

Bất cứ gì con muốn thành, con sẽ được:

Con sẽ được thành, bất cứ gì con muốn.

[3] Bush-shirt là loại áo sơ mi may theo kiểu áo jacket đi rừng (safari jacket). Đây là một sản phẩm đặc trưng ra đời trong quá trình khai phá Ấn Độ của thực dân Anh.

Cho tới trước lễ cắt bao quy đầu của tôi do một ông thợ cạo hở hàm ếch tại Hiệu Thợ cạo Hoàng gia trên đường Gowalia Tank thực hiện (tôi mới được hơn hai tháng), tôi đã rất đắt khách tại Điền trang Methwold. (Nhân tiện, về chuyện cắt bao quy đầu: tôi thề là tôi vẫn nhớ lão thợ cạo cười nhăn nhở, lão túm lấy tôi nơi da quy đầu, trong khi thằng nhỏ của tôi ngoe nguẩy điên cuồng như một con rắn trơn tuột; và lưỡi dao cạo đi xuống, và cơn đau; nhưng tôi được kể rằng, lúc đó, tôi thậm chí cũng không chớp mắt.)

Phải, tôi là một thằng bé rất được ưa thích: hai bà mẹ của tôi, Amina và Mary, trông thấy tôi bao nhiêu cũng không đủ. Trong mọi vấn đề thực tiễn, họ là những đồng minh thân cận nhất. Sau khi tôi được cắt bao quy đầu, họ cùng tắm cho tôi; và cùng khúc khích khi cái bộ phận mới tổn thương của tôi ngoe nguẩy giận dữ trong nước tắm. “Ta phải coi chừng thằng nhóc này, Bà ạ,” Mary láu lỉnh nói, “Cái ấy của nó có sự sống riêng đấy!” Và Amina, “Chậc, chậc, Mary, cô gớm quá, thật đấy...” Nhưng rồi trong tiếng nấc nghẹn của cơn cười không nhịn nổi, “Bà xem kìa, quả ớt bé bỏng tội nghiệp của cu cậu!” Vì nó lại đang ve vẩy, giãy giụa như một con gà bị cắt tiết... Cùng nhau, họ chăm chút cho tôi cực kỳ chu đáo; nhưng về vấn đề tình cảm, họ lại là tử địch. Có lần, khi đẩy tôi đi rong qua Vườn treo trên Đồi Malabar, Amina nghe lỏm thấy Mary nói với mấy cô ayah khác, “Này: đây là thằng con mập mạp của tôi” - và cảm thấy một sự uy hiếp kỳ lạ. Bé Saleem trở thành, kể từ đó, chiến trường của tình yêu của họ; họ nỗ lực vượt mặt đối phương trong việc biểu lộ tình yêu thương; trong khi thằng bé, đã biết nháy mắt, ợ hơi thật to, hấp thụ tình cảm của họ, lấy nó để tăng tốc độ phát triển, phình ra và nuốt chửng vô số cái ôm ấp hôn hít bẹo-cằm-nựng-nịu, tích nạp cho thời khắc khi nó có được đặc tính cốt lõi của nhân loại: mỗi ngày, và chỉ vào những giờ phút hiếm hoi tôi bị bỏ lại một mình với ngón tay đang chỉ của người ngư phủ, tôi cố rướn mình đứng lên trong cũi.

(Và trong khi tôi nỗ lực vô ích để đứng dậy bằng hai chân, Amina cũng bị bóp nghẹt trong một quyết tâm vô vọng - bà cố sức trục xuất khỏi đầu mình giấc mơ về người chồng không thể gọi tên, vốn đã thay thế giấc mơ về giấy bẫy ruồi từ cái đêm sau khi tôi ra đời; một giấc mơ với tính chân thực mãnh liệt đến mức nó ở lại với bà suốt những giờ bà tỉnh ngủ. Trong đó, Nadir Khan đến bên giường bà và làm bà có thai; một sự phi lý quái hiểm đến nỗi làm Amina lẫn lộn về nguồn gốc của đứa trẻ, và đem đến cho tôi, đứa trẻ của nửa đêm, một người cha thứ tư để đặt cạnh Winkie và Methwold và Ahmed Sinai. Lo lắng nhưng bất lực trong vòng kiềm tỏa của giấc mơ, từ đó mẹ tôi Amina bắt đầu hình thành một màn sương mù tội lỗi rồi sẽ, nhiều năm sau, bao quanh đầu bà như một vòng hoa đen tăm tối.)

Tôi chưa bao giờ được nghe Wee Willie Winkie thời đỉnh cao. Sau nỗi mất mát mù lòa kia, thị lực của ông dần hồi phục; nhưng có gì đó gay gắt và cay đắng đã len vào giọng hát của ông. Ông bảo đó là bệnh suyễn, và tiếp tục đến Điền trang Methwold mỗi tuần một lần để hát những bài hát vốn, cũng như ông, là tàn tích của thời đại Methwold. “Chúc Ngủ Ngon, Quý Bà,” ông hát; và, để cập nhật, bổ sung “Mây Rồi Sẽ Sớm Tan” vào vốn biểu diễn của minh, và, sau đó ít lâu, “Cún Con Trên Cửa Sổ Giá Nhiêu Tiền?” Đặt một đứa bé khá bự với cặp đầu gối gõ nhau đầy khiếp hãi trên tấm thảm nhỏ cạnh ông trong vòng xuyến, ông ca những bài ca đầy niềm hoài cổ, và không ai nỡ đuổi ông đi. Winkie và ngón tay người ngư phủ là hai trong số ít những thứ thời William Methwold còn sót lại, vì sau khi người Anh biến mất, những người kế tục ông ta đã tống khứ khỏi các cung điện những đồ đạc họ ruồng bỏ. Lila Sabarmati bảo lưu chiếc pianola; Ahmed Sinai giữ lại tủ whisky; ông lão Ibrahim chấp nhận những chiếc quạt trần; nhưng lũ cá vàng chết, vài con vì đói, những con khác vì bị nhồi nhét khủng khiếp đến mức chúng nổ tung thành những đám mây nhỏ vảy và thức ăn cá chưa tiêu hóa; đàn chó chạy rông, và sau cùng thôi không quanh quẩn ở Điền trang nữa; và chỗ quần áo bạc màu trong những chiếc tủ cũ được phân phát cho các bà quét dọn và những người hầu khác ở Điền trang, thế nên suốt nhiều năm về sau những người thừa kế William Methwold được phục vụ bởi những người đàn ông và đàn bà mặc áo sơ mi và váy vải hoa ngày một rách nát của chủ nhân đời trước của họ. Nhưng Winkie và bức tranh trên tường của tôi sống sót; ca sĩ và ngư phủ trở thành thông lệ trong đời sống của chúng tôi, giống như giờ cocktail, nay đã thành một thói quen quá mạnh mẽ không thể dứt bỏ. “Mỗi giọt lệ và niềm đau nhỏ bé,” Winkie hát, “càng kéo em lại gần anh...” Còn giọng ông càng lúc càng kém đi, tới khi nghe như một cây đàn sitar mà bầu cộng hưởng, làm bằng vỏ bí ngô sơn mài, đã bị chuột gặm từ lâu; “Vì bệnh suyễn,” ông bướng bỉnh bào chữa. Trước khi chết, ông mất giọng hoàn toàn; bác sĩ sửa đổi kết quả chẩn đoán thành ung thư vòm họng; nhưng họ lại sai, bởi Winkie không chết vì bệnh mà vì nỗi cay đắng mất đi người vợ mà sự bất trinh ông chưa từng hoài nghi. Con trai ông, được đặt tên là Shiva theo vị thần sáng tạo và hủy diệt, ngồi dưới chân ông trong những ngày đầu ấy, lặng lẽ chịu đựng gánh nặng là căn nguyên (hoặc giả nó nghĩ vậy) sự suy sụp từ từ của cha mình; và dần dà, theo năm tháng, chúng tôi chứng kiến đôi mắt nó ngập một nỗi căm giận không thể nói thành lời; chúng tôi chứng kiến nắm tay nó siết lại quanh từng viên sỏi rồi ném đi (ban đầu vô hại, nhưng ngày một nguy hiểm hơn khi nó lớn) ra khoảng trống xung quanh. Khi thằng lớn của Lila Sabarmati lên tám, nó tự ý chọc ghẹo Shiva về tính khó gần, cái quần cộc không hồ, cặp đầu gối củ lạc; thế là thằng bé đã bị tội ác của Mary đày đọa trong kiếp nghèo với đàn phong cầm liền ném một hòn đá bẹt và sắc, cạnh bén như dao cạo, làm kẻ chòng ghẹo nó mù mắt phải. Sau tai nạn của Mắt Chẻ, Wee Willie Winkie đến Điền trang Methwold một mình, bỏ lại đứa con trai bước vào những mê cung u tối mà về sau chỉ một cuộc chiến tranh mới giải thoát được nó.

Vì sao Điền trang Methwold tiếp tục chịu đựng Wee Willie Winkie bất chấp sự hư hoại trong giọng hát của ông và hành vi bạo lực của con ông: ông từng, một lần, cho họ một gợi ý quan trọng về cuộc sống. “Đứa trẻ đầu tiên chào đời,” ông nói, “sẽ biến quý vị thành thật.”

Là hệ quả trực tiếp từ gợi ý của Winkie, tôi, trong những ngày đầu, cực kỳ đắt khách. Amina và Mary giành giật sự chú ý của tôi; nhưng ở mọi nhà tại Điền trang đều có người muốn biết tôi; và sau cùng Amina, cho phép niềm tự hào về tiếng tăm của tôi lấn át tâm lý miễn cưỡng để tôi ra khỏi tầm mắt, đồng ý cho mượn tôi, dưới hình thức xoay tua, cho các gia đình trên đồi. Được Mary Pereira đẩy đi trong cỗ xe nôi màu thiên thanh, tôi bắt đầu cuộc diễu hành chiến thắng quanh các cung điện lợp ngói đỏ, ban vinh dự cho lần lượt từng nhà với sự hiện diện của mình, và khiến chúng trở nên thật với chủ nhân. Và giờ, nhìn lại bằng đôi mắt của Bé Saleem, tôi có thể vén màn hầu hết mọi bí mật của hàng xóm, bởi những người lớn đã sống cuộc đời họ trước mặt tôi mà không hề e dè bị quan sát, không biết rằng, nhiều năm sau, ai đó sẽ nhìn lại qua đôi mắt trẻ thơ và quyết định bật mí điều bí mật.

Thế nên đây là ông lão Ibrahim, đang chết mòn trong lo âu vì, ở châu Phi, các chính phủ đang quốc hữu hóa các đồn điền sisal của ông; đây là con cả của ông Ishaq đang buồn bực về việc kinh doanh khách sạn lâm vào cảnh nợ nần, khiến ông ta buộc phải vay tiền đám anh chị trong vùng; đây là cặp mắt của Ishaq, đang thèm khát cô em dâu, mặc dù vì sao Nussie vịt bầu có thể khơi dậy ham muốn tình dục ở ai đó vẫn là điều bí ẩn đối với tôi; và đây là chồng Nussie, Ismail tay luật sư, người đã thu được một bài học quan trọng từ ca đẻ forcep của đứa con trai: “Ở đời chẳng có gì chui ra trót lọt cả,” ông ta bảo cô vợ vịt bầu, “trừ phi nó được ép ra.” Áp dụng triết lý ấy vào sự nghiệp luật gia của mình, ông ta đeo đuổi một sự nghiệp hối lộ quan tòa và dàn xếp bồi thẩm; mọi đứa trẻ đều có quyền năng thay đổi cha mẹ và Sonny đã biến cha mình thành một gã lừa đảo hết sức thành công. Và, chuyển sang Biệt thự Versailles, đây là Bà Dubash với bàn thờ thần Ganesh của bà ta, được nhét vào góc một căn hộ với sự bừa bộn siêu nhiên đến mức, ở nhà tôi, chữ “dubash” trở thành một động từ nghĩa là “bày bừa”... “Ôi, Saleem, con lại dubash phòng con rồi, cái thằng da đen này!” Mary sẽ kêu ca. Và giờ căn nguyên của sự bừa bộn, nghiêng người qua mái chiếc xe nôi để bẹo cằm tôi: Adi Dubash, nhà vật lý, thiên tài của hạt nhân nguyên tử và rác rưởi. Bà vợ, đã có thai Cyrus-đại-đế, lùi lại sau, nuôi lớn đứa con, có một điều gì đó cuồng tín lóe lên trong khóe mắt, đang lặng lẽ chờ thời; nó sẽ không trỗi dậy cho đến khi Ông Dubash, người ngày ngày phải làm việc với những vật chất nguy hiểm nhất trên đời, chết vì nghẹn một quả cam mà bà vợ quên không tách hột. Tôi không bao giờ được mời tới căn hộ của Bác sĩ Narlikar, viên bác sĩ phụ khoa ghét trẻ con; nhưng tại nhà Lila Sabarmati và Homi Catrack tôi trở thành một tên nhòm trộm, một kẻ đồng lõa tí hon với một ngàn lẻ một sự bất trinh của Lila, và cuối cùng là nhân chứng cho sự khởi đầu của cuộc tư thông giữa cô vợ viên sĩ quan hải quân với tay trùm-phim-và-chủ-ngựa-đua; điều rồi sẽ đến lúc phục vụ đắc lực cho tôi khi tôi toan tính một hành động trả thù nào đó.

Ngay cả một đứa trẻ cũng phải đối diện với vấn đề định nghĩa bản thân; và tôi buộc phải nói rằng sự nổi tiếng sớm của tôi có những mặt khó khăn riêng của nó, vì tôi bị tấn công tới tấp bởi một sự đa dạng hỗn loạn về cách nhìn nhận vấn đề, là Kẻ được Ban phước với vị guru dưới vòi nước, kẻ nhòm trộm với Lila Sabarmati; trong mắt Nussie-vịt-bầu tôi là một địch thủ, và một địch thủ thành công hơn, của thằng Sonny nhà cô ta (mặc dù, rất đáng khen, cô ta không bao giờ thể hiện sự cay cú, và cũng hỏi mượn tôi như tất cả mọi người); với bà mẹ hai đầu của tôi, tôi là đủ thứ bé bỏng trên đời - họ gọi tôi là joonoo-moonoo, và putch-putch, và mảnh trăng nhỏ bé.

Nhưng, nói cho cùng, một đứa bé có thể làm được gì ngoài việc nuốt hết tất cả và hy vọng sau này sẽ hiểu ra? Kiên nhẫn, mắt ráo hoảnh, tôi hấp thụ thư-Nehru và lời tiên tri của Winkie; nhưng ấn tượng sâu sắc hơn tất thảy lại đến vào ngày cô con gái ngớ ngẩn của Homi Catrack gửi suy nghĩ của cô ta qua vòng xuyến vào cái đầu trẻ thơ của tôi.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26
Phan_27
Phan_28
Phan_29
Phan_30
Phan_31
Phan_32
Phan_33
Phan_34
Phan_35
Phan_36
Phan_37
Phan_38
Phan_39
Phan_40
Phan_41
Phan_42
Phan_43
Phan_44
Phan_45
Phan_46
Phan_47
Phan_48
Phan_49
Phan_50
Phan_51
Phan_52
Phan_53 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .